Chiều nay (23-5), Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông.
Ngoài ông Lê Hải Bình, Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, cuộc họp báo quốc tế có sự tham dự của ông Đỗ Văn Hậu, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam; ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban biên giới quốc gia; ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Cảnh sát biển và bà Nguyễn Thị Thanh Hà, hàm Vụ trưởng Vụ luật pháp quốc tế - Bộ Ngoại giao.
Trước đó, lần gần đây nhất là vào ngày 17-5, Bộ Ngoại giao họp báo với chủ đề “Về các vụ việc liên quan tới trật tự trị an tại một số địa phương vừa qua”. Buổi họp báo thường kỳ chiều 15-5 của cơ quan này cũng trả lời nhiều vấn đề liên quan trước các nhà báo trong nước và quốc tế.
Buổi họp báo quốc tế đầu tiên liên quan đến sự kiện này là vào ngày 7-5, Bộ Ngoại giao đã vạch trần âm mưu của Trung Quốc, đưa những hình ảnh giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng biển của Việt Nam cũng như hình ảnh, clip tàu Trung Quốc tấn công tàu chấp pháp của Việt Nam trên biển để minh chứng cho việc Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam.
Đúng 16 giờ, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình tuyên bố bắt đầu buổi họp báo. Ông Bình cho biết, từ khi đưa trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam đến nay, phía Trung Quốc vẫn duy trì và tăng số tàu nhằm uy hiếp lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam. Đồng thời, Trung Quốc cũng đưa ra những luận điệu sai trái. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao ta khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để chứng minh chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Lê Hải Bình nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền vùng biển của mình bởi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là thiêng thiêng, bất khả xâm phạm.
Ông Trần Duy Hải cho biết tới nay Trung Quốc vẫn không chấm dứt các hoạt động vi phạm tại thềm lục địa của Việt Nam được xác định bởi Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 . Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng các tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không để ảnhh hưởng an ninh, an toàn hàng hải và khu vực. Tuy nhiên, mọi thiện chí của Việt Nam đều không được đáp ứng. Trung Quốc còn đưa ra nhiều luận điệu sai trái về tình hình Biển Đông.
Bộ Ngoại giao cũng đã cung cấp một clip về pháp lý của Việt Nam đối với chủ quyền quần quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài ra, cung cấp một bộ tài liệu chi tiết bằng cả tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Trung cho báo giới.
Theo ông Trần Duy Hải Từ thế kỷ 17, Nhà nước Việt Nam đã xác lập chủ quyền của mình với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, liên tục. Chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo đã được khẳng định tại các Hội nghị quốc tế Sanfrancisco, giải quyết về tình hình lãnh thổ trước chiến tranh thế giới thứ 2.
Trung Quốc đòi chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) song đa số quốc gia phản đối. Trong khi đó, Việt Nam đã khẳng định chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không nhận được sự phản đối của bất cứ ai.
Hiệp định Geneve năm 1954 cũng khẳng định việc bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau khi Pháp rút khỏi thì Việt Nam đã tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và ra nhiều tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này. “Trung Quốc tham dự hội nghị Genve và họ biết rõ điều này” - ông Hải nói.
Ông Hải nêu rõ năm 1974, Trung Quốc đã sử dựng vũ lực chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ông Hải khẳng định việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền như vậy là hành vi phi pháp. Bị vong lục 1988 của Trung Quốc, văn bản chính thức của Trung Quốc, cũng đã khẳng định nguyên tắc: Xâm lược không sinh ra chủ quyền. Trên thế giới không quốc gia nào công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa.
Gần đây, Trung Quốc nói Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Hoàng Sa với Trung Quốc từ một nội dung Công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập lãnh thổ chủ quyền, không đề cập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ ghi nhận, tán thành Trung Quốc mở rộng lãnh hải 12 hải lý.
Ông Trần Duy Hải nêu rõ Trung Quốc đang muốn biến khu vực không có tranh chấp thành khu vực tranh chấp, nhằm hiện thực hoá yêu sách “đường lưỡi bò”. “Việt Nam quyết tâm bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của mình bằng các biện pháp hoà bình” – ông Hải nhấn mạnh.
Tại cuộc họp báo, ông Đỗ Văn Hậu đã trình bày về quá trình thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam đã triển khai các hoạt động khai thác dầu khí trên toàn lãnh thổ. Trên thềm lục địa, Chính quyền Việt Nam đã triển khai hoạt động cuối những năm 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ 20.
Trong các năm 1973, 1974, Chính quyền miền Nam Việt Nam đã ký với một số công ty nước ngoài khảo sát toàn bộ khu vực ngoài khơi phía Bắc Việt Nam bao trùm cả quần đảo Hoàng Sa.
Từ năm 1975, từ khi thành lập Tổng cục dầu khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam ký kết với rất nhiều các công ty dầu khí thế giới về việc thăm dò và khai thác trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tổng quan trên toàn thềm lục địa Việt Nam đã phát hiện ra trên 30 mỏ trên thềm lục địa Việt Nam đang được khai thác. Các hoạt động khai thác đều được thực hiện trong khuôn khổ và trong giới hạn.
Trả lời các câu hỏi phía Trung Quốc nói Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 đã gửi công thư Thủ tướng Chu Ân Lai công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Điều này có đúng không? Công thư có phải là một tuyên bố có giá trị pháp lý không? Nếu không thì công thư này mang ý nghĩa gì?, ông Trần Duy Hải nêu rõ Công thư của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý nêu trong nội dung, đó là Việt Nam tôn trọng 12 hải lý mà Trung Quốc công bố.
Ông Hải nhấn mạnh công thư không đề cập chủ quyền chủ quyền lãnh thổ Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không có giá trị trong vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa. Giá trị công thư cũng phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi cho Trung Quốc trong bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa theo Hiệp định Geneve mà Trung Quốc có tham gia. “Chúng tôi cũng không thể cho ai cái gì không thuộc chúng tôi” – ông Hải nói.
Trước câu hỏi về việc trong chuyến thăm và làm việc ở Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập sử dụng biện pháp pháp lý trong vụ giàn khoan Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển của Việt Nam, Mỹ đã tuyên bố ủng hộ Việt Nam trong việc sử dụng biện pháp pháp lý, vậy Việt Nam có tính đến khả năng này và đã chuẩn bị đến đâu?, bà Nguyễn Thị Thanh Hà - Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế, Bộ Ngoại giao –cho biết Việt Nam có quyền sử dụng mọi biện pháp công ước LHQ về Luật biển năm 1982 đã nêu.
Theo bà Hà, việc sử dụng biện pháp hòa bình bao gồm cả việc sử dụng cơ quan tài phán quốc tế. “Việc sử dụng biện pháp hòa bình là phù hợp, hơn nữa sử dụng biện pháp pháp lý sẽ tốt hơn biện pháp vũ trang… Vì vậy, chúng tôi, với tư cách cơ quan tham mưu, có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng mọi biện pháp” – bà Hà cho hay.
Về câu hỏi từ đầu tháng 5 đến nay có 20 cuộc tiếp xúc với Trung Quốc về vụ giàn khoan Hải Dương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng khẳng định Việt Nam không đánh đổi chủ quyền để lấy tình hữu nghị viển vông, vậy đây đã đến giới hạn hữu nghị chưa và xin bình luận về 16 chữ vàng trong quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, ông Trần Quý Hải nêu rõ: Vấn đề chủ quyền hết sức thiêng liêng với Việt Nam nên không thể có gì đánh đổi được. “Vàng rất quý nhưng độc lập tự do, chủ quyền lãnh thổ còn quý hơn vàng” - ông Hải bày tỏ.
Trả lời cầu hỏi của Phó Đại sứ Australia rằng đến nay giàn khoan 981 của Trung Quốc đã hoạt động được 3 tuần, phía Việt Nam đã có bằng chứng Trung Quốc có hoạt động khoan thăm dò ở khu vực đó chưa? Cấp Thứ trưởng 2 nước Việt Nam-Trung Quốc đã gặp thảo luận các vấn đề gì?, ông
Đỗ Văn Hậu cho biết khó trả lời Trung Quốc đã khoan hay chưa. Theo quy trình của việc định vị để tiến hành khoan bình thường thì thời gian đã đủ tiến hành khoan. Tuy nhiên, phía Việt Nam không tiếp cận được vào gần giàn khoan nên chưa biết đã khoan hay chưa. “Tôi xin nhấn mạnh, theo quy trình là đã có thể khoan được” - ông Hậu nói.
Trả lời một phần câu hỏi trên, ông Trần Quý Hải choa biết trong cuộc gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam và Thứ trưởng Trung Quốc, Việt Nam đã yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan để hai bên sớm ổn định tình hình. Song Trung Quốc đã khước từ và đưa ra nhiều luận điệu sai trái về chủ quyền của Việt Nam. Trong cuộc gặp Việt Nam cũng nói rất rõ hai bên không nên sử dụng các biện pháp quân sự để giải quyết tranh chấp này. Phía Trung Quốc cũng tán đồng ý kiến đó của Việt Nam.
Trả lời câu hỏi của Hãng thông tấn Nhật Bản về việc Việt Nam có dự đoán về trữ lượng dầu khí ở khu vực này hay không?, ông Đỗ Văn Hậu cho biết đánh giá của Mỹ và Trung Quốc rất khác nhau về trữ lượng. Nếu nói toàn bộ khu vực Biển Đông thì các nước xung quanh đều có đánh giá. Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam dự báo 4-6 tỉ tấn nguồn. Còn ngoài khu vực đặc quyền của Việt Nam thì hiện Việt Nam không tin những con số đánh giá của Mỹ và Trung Quốc.
“Ở khu vực giữa của Biển Đông có nhiều người đánh giá có trữ lượng lớn song chúng tôi không có lạc quan như vậy. Tại khu vực Trung Quốc đang có giàn khoan, chúng tôi chưa khoan thử nên chưa khẳng định có hay không. Đây là khu vực có thể có đầu khí song chúng tôi đánh giá triển vọng ở đây là không lớn” - ông Hậu cho hay.
Về các câu hỏi Trung Quốc cáo buộc tàu Việt Nam khiêu khích, tấn công tàu Trung Quốc? sắp tới Việt Nam sẽ làm gì để tranh thủ sự ủng hộ của ASEAN?, ông Ngô Ngọc Thu - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam - nêu rõ Trung Quốc đưa thông tin sai lệch mang tính vu cáo, và Việt Nam hoàn toàn bác bỏ những thông tin vu cáo, bịa đặt này. Ông Thu cho biết lúc cao điểm như ngày 20-5 Trung Quốc đã sử dụng tới 137 tàu thuyền, trong đó có 4 tàu chiến và một số máy bay. Trung Quốc đã sử dụng súng phun nước, dùng máy tạo ra âm thanh, sóng âm tần gây khó chịu cũng như ảnh hưởng tới thính giác của các tàu xung quanh khu vực giàn khoan hạ đặt trái phép trong vùng biển của Việt Nam. Trung Quốc cũng sử dụng các loại âm thanh khác để tác động. Ngoài ra tiếp tục sử dụng tàu để đâm va các tàu chấp pháp của Việt Nam.
Ông Thu khẳng định Việt Nam không sử dụng súng phun nước, vòi rồng. “Chúng tôi chỉ sử dụng loa tuyên truyền yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu khỏi vùng biển của Việt Nam” - ông Thu cho biết.
Nguồn tin: Người Lao Động
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
<img alt="dsc00041" height="720" src="/uploads/photos/dsc00041.jpg" width="1280"...