Tiến sĩ Trần Công Trục. Ảnh: N.Hưng. |
Giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt ở đâu?
Ngày 1/5/2014, cơ quan chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan dầu khí Hải Dương 981 và ba tàu dich vụ dầu khí của Trung Quốc di chuyển từ tây bắc đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) xuống phía nam.
Đến 16h ngày 2/5, giàn khoan này neo đậu tại phía nam đảo Tri Tôn cùng khoảng 27 tàu bảo vệ. Trong các ngày tiếp theo, Trung Quốc tiếp tục huy động thêm tàu bảo vệ đến khu vực này.
Ngày 3/5/2014, trang mạng của Cục Hải sự Trung Quốc đăng thông tin thông báo từ ngày 2/5 đến 15/8, giàn khoan Hải Dương 981 sẽ tiến hành khoan thăm dò trong vùng biển có bán kính một hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15độ 29’58” vĩ Bắc - 111độ 12’06” kinh Đông, cấm mọi phương tiện đi vào khu vực này.
Tiếp đó, ngày 5/5, Cục Hải sự Trung Quốc tiếp tục đăng thông tin trong đó thông báo mở rộng phạm vi khoan thăm dò lên ba hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15độ 29’58” vĩ Bắc - 111độ 12’06” kinh Đông, cấm mọi phương tiện đi vào khu vực này, đồng thời hủy bỏ cảnh báo đưa ra ngày 3/5. Vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) của Việt Nam khoảng 120 hải lý.
Theo Cục Kiểm ngư, đến 10h ngày 27/5, Trung Quốc đã neo giàn khoan tại vị trí có tọa độ 15độ 33’38'' độ vĩ Bắc- 111độ 34’62'' độ kinh Đông, cách đảo Tri Tôn về hướng đông - đông nam 25 hải lý, cách vị trí cũ 23 hải lý theo hướng đông đông bắc, cách đảo Lý Sơn khoảng 150 hải lý.
Cùng ngày, theo TTXVN tàu chiến Trung Quốc đã tăng cường hoạt động, áp sát các tàu kiểm ngư hơn mọi ngày và thường xuyên có hành động mở bạt che súng, chĩa súng vào các tàu kiểm ngư khi tới gần.
Ngày 27/5, Cục Hải sự Trung Quốc cũng ra thông báo về việc di chuyển giàn khoan Hải Dương-981 đến vị trí mới. Trong ngày, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định: Vị trí mới mà giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc di chuyển tới theo thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trên thềm lục địa của Việt Nam. Hoạt động của giàn khoan ở vị trí này vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam".
Ngày 1/6, giàn khoan có sự dịch chuyển nhẹ và ổn định tại tọa độ 15độ 33’21’’N - 111độ 34’35’’E, cách vị trí ngày 27/5 khoảng 140 m về phía tây tây bắc.
Đến nay vị trí giàn khoan cơ Hải Dương-981 vẫn nằm sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hiện trong dư luận vẫn tồn tại những nhận thức, nhận định, đánh giá khác nhau về vị trí giàn khoan Hải Dương 981. Dư luận đang cần có câu trả lời chính xác, thật sự khách quan, trung thực và có sức thuyết phục về giàn khoan Hải Dương 981, cùng với một lực lượng lớn tàu thuyền, máy bay, trong đó có cả tàu quân sự, đang ngày đêm ngang nhiên quần đảo ở trong vùng biển nào?
Vị trí giàn khoan Hải Dương-981 có nằm trong “vùng biển Tây Sa” không?
Để biện minh và hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc ngụy biện rằng vị trí đặt giản khoan cách đảo “Trung Kiến” (đảo Tri Tôn) 18 hải lý là hoàn toàn nằm trong lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo “Tây Sa”, bởi vì Trung Quốc hoàn toàn có chủ quyền với quần đảo "Tây Sa".
Về lập luận ngụy biện này, có hai nội dung mà cách tiếp cận của chúng ta cần phân biệt rạch ròi: nội dung chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và hiệu lực của quần đảo này trong việc xác định phạm vi vùng biển và thềm lục địa của nó. Từ đó mới có sự phân tích, đánh giá một cách khách quan, chính xác về vị trí của giàn khoan Hải Dương 981 đang hoạt động là ở trong phạm vi vùng biển nào theo đúng quy định của UNCLOS.
1. Ai là chủ nhân của quần đảo Hoàng Sa?
Trung Quốc không thể xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm hoàn toàn từ năm 1974 và luôn luôn khẳng định họ có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo này, không cần phải bàn cãi.
Việt Nam cũng đã bày tỏ quan điểm rõ ràng: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi.
Nhưng Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam sau ba lần thừa cơ thôn tính Hoàng Sa bằng vũ lực.
Lần thứ nhất, Trung Quốc đã nhảy vào chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngay từ đầu năm 1909, mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy ba pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm. Sau đó nước này phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho Nhà nước Việt Nam về đối ngoại, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý, thực thi chủ quyền tại quần đảo này.
Lần thứ hai, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận trong Thế chiến 2 và Việt Nam vừa giành được độc lập và đang phải đối mặt với bộn bề khó khăn, năm 1946 chính quyền Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đưa lực lượng ra chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Lần thứ ba, khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục chạy ra Đài Loan, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng bất hợp pháp ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Tham vọng bành trướng lãnh thổ của người Trung Quốc trên Biển Đông vẫn không dừng lại mà chỉ chực có cơ hội là thừa thế đánh chiếm. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của Hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo An Vĩnh, phía đông quần đảo Hoàng Sa.
Đó là trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, một dấu ấn bi hùng không bao giờ phai trong lịch sử đấu tranh gìn giữ và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của dân tộc Việt Nam.
Hành động của Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam là hoàn toàn sai trái:
Một là, hành động đánh chiếm các đảo trong quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là sự vi phạm nghiêm trọng điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của tổ chức Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc, phải tuân thủ.
Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/ 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay (coi đe dọa hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”.
Hai là, hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo này năm 1974 thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam.
Ba là, theo luật pháp quốc tế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không tạo ra được chứng cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc được trích dẫn ở trên đã nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Hành động xâm lược nói trên không bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Những hành động như vậy đã bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ và chắc chắn sẽ bị các toà án quốc tế bác bỏ một khi chúng được đưa ra tòa án quốc tế nhằm minh chứng cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
2. Trung quốc cố tình áp dụng sai Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982:
Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đang hoạt động nằm ở vùng biển nào: lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là “Tây Sa” hay nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ?
Dễ dàng nhận ra, vị trí này không phải nằm trong lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa, thậm chí là của đảo Tri Tôn, vì lúc đầu, nó ở cách Tri Tôn 18 hải lý và từ ngày 27/5, nó ở cách đảo Tri Tôn 25 hải lý. Vậy thì chỉ có thể là nó đã nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế của quần đảo này (vì vùng tiếp giáp lãnh hải xét về phạm vi không gian, vẫn là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế). Vấn đề là quần đảo này có hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để có thể cho phép quốc gia có chủ quyền mở rộng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo này hay không?
Như mọi người đều biết, quần đảo này bao gồm các đảo, đá, bãi cạn, rạn san hô rất nhỏ bé, nằm trong khu vực có khí hậu khắc nghiệt, không thích hợp cho đời sống của con người và đương nhiên không thể có đời sống kinh tế riêng, mặc dù sau khi xâm chiếm bằng vũ lực, Trung Quốc đang cố tìm cách tạo ra diện mạo đó. Hơn nữa, quần đảo này không phải là quốc gia quần đảo. Vì thế, việc vạch ra hệ thông đường cơ sở để từ đó xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của quần đảo này là hoàn toàn khác với quốc gia quần đảo. Vì những lý do đó, có thể khẳng định rằng quần đảo này không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; có chăng thì từng đảo nổi theo đúng quy định của Điều 121 của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 chỉ có thể có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý mà thôi.
Việc Trung Quốc đã vạch một đường cơ sở bao trọn quần đảo mà họ gọi là “Tây Sa” để từ đó tạo ra vùng chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là sai với quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Do đó có thể khẳng định rằng vị trí của giàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép và đang cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của mình.
Để minh chứng cho nhận xét này, xin hãy tham khảo các quy định có liên quan của Luật Biển quốc tế và Luật Biển Việt Nam:
Điều 121, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 định nghĩa: “một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. Nội dung quan trọng hơn đó là chế độ pháp lý của các đảo: các đảo có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuy nhiên, các đảo “không thích hợp cho con người ở và không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Điều 19, Luật Biển Việt Nam đã quy định về đảo, quần đảo như sau:
- Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
- Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Điều 20, Luật Biển Việt Nam quy định:
- Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
- Đảo, đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều 13, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã quy định rõ: “các bãi cạn nửa nổi nửa chìm là các vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước”. Chế độ pháp lý của các bãi cạn, đá: khi toàn bộ hoặc một phần bãi cạn nửa nổi, nửa chìm ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải; khi chúng hoàn toàn ở cách lục địa hoặc ở cách một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì chúng không có lãnh hải riêng và các đường cơ sở thẳng chỉ được kéo đến hay xuất phát từ các bãi này khi trên đó có các công trình thiết bị nhân tạo thường xuyên nhô trên mặt nước.
Tại thực địa, các tàu Trung Quốc thường xuyên vây ép ngăn chặn tàu Việt Nam. Ảnh: Canhsatbien. |
Quốc gia quần đảo? Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 dành một phần (Phần IV), gồm các điều 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54 để quy định về phạm vi và chế độ pháp lý của quốc gia quần đảo và quần đảo. Theo đó, quốc gia quần đảo là quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có thể bao gồm một số đảo khác nữa. Còn quần đảo là một nhóm các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước nối giữa và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
Nội dung quan trọng nhất là tại Điều 47, Công ước quy định về đường cơ sở quần đảo: quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ số 1/1 và 9/1. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; hoặc có thể có chiều dài tối đa là 125 hải lý, nếu có 3% tổng số đường cơ sở bao quanh một quần đảo có chiều dài lớn hơn 100 hải lý; tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh quần đảo. Các đường cơ sở này cũng không được kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm, trừ trường hợp trên đó có xây các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải…
Với những nội dung này thì rõ ràng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 chỉ quy định cách vạch đường cơ sở thẳng cho quốc gia quần đảo, chứ không quy định cách vạch đường cơ sở cho các quần đảo không phải là quốc gia quần đảo. Điều đó được hiểu là cách vạch đường cơ sở tại các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển ở cách quốc gia đó một khoảng cách vượt quá chiều rộng lãnh hải thì sẽ phải tuân thủ các quy định tại phần VIII, Điều 121: Chế độ các đảo.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng phải tuân thủ quy định này của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để vạch đường cơ sở và xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng.
Ngoài ra, Luật Biển còn có những quy định về các đảo, công trình, thiết bị nhân tạo được xây dựng trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa:
Điều 60, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định: Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, khai thác và sử dụng: các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác… Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó, kể cả quyền tài phán về luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
Việc xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, phải có các phương tiện thường trực để báo hiệu sự tồn tại của chúng. Nếu các thiết bị đó đã bỏ hoặc không dùng nữa thì phải tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải…
Quốc gia ven biển có thể lập ra xung quanh các công trình đó những khu vực an toàn có phạm vi không vượt quá 500 m xung quanh chúng tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các công trình và đều phải được thông báo theo đúng thủ tục. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các quy phạm quốc tế liên quan đến hàng hải trong khu vực gần các công trình và các khu vực an toàn đó.
Tuy nhiên không được xây dựng các công trình nhân tạo và lập các khu vực an toàn xung quanh chúng ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
Các công trình nhân tạo này không được hưởng quy chế các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự hiện diện của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việc xây dựng và bảo vệ các công trình nhân tạo trên thềm lục địa cũng phải tuân thủ các quy định nói trên, với những sửa đổi cần thiết về chi tiết (mutatis mutandis).
Điều 34, Luật Biển Việt Nam đã quy định về đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm:
- Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển.
- Các loại báo hiệu hàng hải.
- Các thiết bị công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển.
Nhà nước Việt Nam có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh. Tại các điểm 3,4,5,6, Điều 34, Luật Biển Việt Nam đã thể hiện đầy đủ các nội dung phù hợp với các quy định nói trên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Có thể khẳng định rằng những lập luận để bảo vệ cho cái gọi là “hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 là hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc quần đảo Tây Sa của Trung Quốc…” là thiếu căn cứ và hoàn toàn phi lý; bởi vì quần đảo Hoàng Sa là quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm trái phép. Hơn nữa, vị trí của giàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của mình.
3. Hoạt động của giàn khoan là bình thường hay bất bình thường?
Nội dung phân tích nói trên đã cho thấy rõ sự bất bình thường của cái gọi là “hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc Tây Sa” xét về khía cạnh pháp lý. Thực chất đây là kết quả logic của việc Trung Quốc cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Điều đặc biệt cần nhấn mạnh và cần phải làm rõ trước dư luận về lực lượng đi theo giàn khoan khổng lồ gồm một đội hình tàu thủy, máy bay cực lớn, trong đó chủ yếu là tàu hải quân và máy bay quân sự lên đến trên 120 chiếc. Lực lượng này hùng hổ sử dụng những biện pháp vũ lực (vòi rồng, đâm húc tàu, gây thương tích ngư dân) để ngăn cản lực lượng làm nhiệm vụ chấp pháp của Việt Nam, gây ra nhiều tổn thất về người và phương tiện của Việt Nam. Bằng chứng quá rõ ràng đã được truyền thông rộng rãi.
Lực lượng trên cùng với biện pháp vũ lực đã và đang được Trung Quốc sử dụng ngày càng quyết liệt, thô bạo, rõ ràng đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, vi phạm các quy định của Luật pháp và thực tiễn quốc tế, đăc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 . Những hành động này đã bộc lộ rõ bản chất của bước tiến mới này, đó là một cuộc hành quân “xâm lược mềm”, một cuộc xâm lược cướp bóc tài nguyên thiên nhiên thuộc các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam.
Chiến lược độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi
Hoạt động trên nằm trong chuỗi các hoạt động leo thang xâm lấn của Trung Quốc ở Biển Đông trong những năm gần đây như chính thức nêu yêu sách “đường lưỡi bò” (tháng 5/2009); cắt cáp tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam (tháng 5, 6/2011); thành lập “thành phố Tam Sa” (tháng 6/2012); đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông hàng năm; đưa ra “Biện pháp thực thi Luật Ngư nghiệp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của tỉnh Hải Nam” (có hiệu lực từ ngày 01/01/2014); tổ chức nhiều đợt tuần tra, diễn tập quân sự tại Biển Đông nhằm phô trương sức mạnh và răn đe các bên tranh chấp khác; tăng cường các hoạt động thăm dò dầu khí, khảo cổ, phát triển du lịch và củng cố các cơ sở chiếm đóng, tấn công xua đuổi tàu cá của Việt Nam… Những hành động trên theo hướng ngày càng công khai, trắng trợn, bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tuyên bố “hoàn toàn có quyền” thành lập vùng nhận diện phòng không ở Biển Đông.
Vị trí của giàn khoan Hải Dương 981 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng đây cũng là vị trí khá nhạy cảm mà Trung Quốc cố tình lựa chọn để thực hiện chiến thuật “bắn một mũi tên trúng nhiều đích”. Một là, tiếp tục khẳng định chủ quyền của họ đối với “Tây Sa”, thực hiện ý đồ cố tình giải thích và áp dung sai Công ước Luật Biển 1982 trong việc mở rộng phạm vi các vùng biển và thềm lục địa dựa vào vị trí của quần đảo này, cũng như các quần đảo khác trong Biển Đông, nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của họ.
Hai là, để tiến thêm một bước mới trong việc thực hiên chiến lược độc chiếm Biển Đông, trước hết Trung Quốc cố tìm cách tạo ra vùng chồng lấn, biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, để áp đặt chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” mà mục tiêu trước mắt là tranh giành việc khai thác nguồn tài nguyên sinh vật và không sinh vật vốn thuộc các vùng biển và thềm lục địa của các quốc gia ở chung quanh Biển Đông theo quy định của Công ước Luật Biển 1982.
Ba là tạo cớ để kiểm soát và ngăn cản hoạt động của tàu thuyền qua tuyến hàng hải quốc tế nhộn nhịp vào loại nhất nhì thế giới. Bốn là, giăng bẫy để đánh lừa dư luận và tìm cách giành lấy sự công nhận trên thực tế những yêu sách chủ quyền biển đảo trong đường biên giới “lưỡi bò”. Năm là, cố tình gây nên tình trạng bất ổn định làm ảnh hưởng hoặc ngăn cản những hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước xung quanh Biển Đông; và, tính toán tạo lý do để sử dụng vũ lực, gây xung đột vũ trang khi thời cơ đến, theo chiêu thức cổ truyền: “phản ứng tự vệ”, “dạy cho Việt Nam bài học”.
Như vậy, các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông thời gian gần đây, đặc biệt là việc đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam là có chủ ý và được tính toán kỹ lưỡng nhằm thực hiện âm mưu “độc chiếm Biển Đông”, hiện thực hóa chủ quyền theo yêu sách “đường lưỡi bò”, cho thấy Trung Quốc sẵn sàng bất chấp mọi thủ đoạn, thách thức dư luận và luật pháp quốc tế nhằm gia tăng các hoạt động khẳng định “chủ quyền” tại Biển Đông, khiến tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng, nguy cơ xảy ra xung đột cao, khó kiểm soát, đe dọa nghiêm trọng lợi ích an ninh, an toàn hàng hải quốc tế và hòa bình ổn định hợp tác ở Biển Đông.
Đặc biệt, Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định quyết tâm chiến lược đưa Trung Quốc trở thành “cường quốc biển”. Để thực hiên quyết tâm này, Trung Quốc đã ban hành nhiều chính sách để tăng cường sự “quản lý thực tế” ở Biển Đông như: công bố Sách trắng Quốc phòng “Vận dụng đa dạng hóa các lực lượng vũ trang Trung Quốc” (ngày 16/4/2013) và “Sách trắng ngoại giao 2013” (17/7/2013), trong đó lần đầu tiên dành mục riêng về “bảo vệ quyền và lợi ích biển Trung Quốc” nhấn mạnh kiên quyết bảo vệ lợi ích cốt lõi quốc gia, khẳng định nhiệm vụ quan trọng của quân đội là bảo vệ quyền và lợi ích biển.
Đáng chú ý là Trung Quốc quyết định thành lập Uỷ ban An ninh quốc gia để thống nhất điều hành công tác an ninh biển đảo; củng cố cơ quan quản lý về biển đảo, cải tổ lực lượng chấp pháp trên biển, thành lập Cục Cảnh sát biển thuộc Bộ Công an thống nhất chỉ huy các lực lượng chấp pháp trên biển như Hải giám, Cảnh sát biển, Ngư chính, Hải quan; tăng cường và mở rộng phạm vi hoạt động của các lực lượng chấp pháp trên biển; Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc thành lập “Trung tâm nghiên cứu hải đảo”… Năm 2013, Trung Quốc tăng ngân sách quốc phòng lên 10,7%, đạt 116 tỷ USD, trong đó tập trung vào phát triển lực lượng Hải quân. Trung Quốc không ngừng củng cố các cơ sở ở “Tam Sa”, thành lập “Đài phát thanh truyền hình Tam Sa”…
Ngoài ra, Trung Quốc dự tính đặt một tàu tuần tra dân sự 5.000 tấn trên đảo Phú Lâm mà họ gọi là Vĩnh Hưng, đảo lớn nhất trên Quần đảo Hoàng Sa, để tuần tra thường xuyên trên Biển Đông (một tờ báo chính thống của Trung Quốc cho biết hôm 21/1/2014) Trung Quốc đang đóng chiếc hàng không mẫu hạm thứ hai (hãng tin Anh Reuters dẫn lời truyền thông Trung Quốc và Hong Kong cho biết hôm Chủ nhật ngày 19/1/2014) và quá trình đóng tàu này sẽ mất sáu năm. Mục tiêu đặt ra là Trung Quốc có ít nhất bốn chiếc tàu sân bay so với 10 chiếc đang hoạt động của Mỹ.
Ngay sau khi phát hiện sự việc trên, Việt Nam đã hết sức kiềm chế; lập trường, quan điểm của Việt Nam đã được thể hiện rõ trong Tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và thư phản đối của Tập đoàn dầu khí Việt Nam (04/5/2014), cụ thể:
- Vị trí tọa độ hoạt động của gian khoan nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý.
- Việt Nam có căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.
- Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị, Việt Nam kiên quyết phản đối.
- Việt Nam cực lực phản đối hành động trên của Trung Quốc và kiên quyết yêu cầu Tổng Công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút giàn khoan Hải Dương-981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
- Việc làm trên của Trung Quốc đi ngược lại với tinh thần hợp tác giữa hai Tập đoàn dầu khí quốc gia, trái với thông lệ của các hoạt động dầu khí quốc tế cũng như phương châm hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Lập trường chung của Việt Nam về vấn đề Biển Đông: Lập trường nhất quán của Việt Nam là trong quá trình tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, các bên tranh chấp liên quan cần:
- Kiềm chế, cùng nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến chương Liên hợp quốc và các chuẩn mực của luật pháp quốc tế, trong đó có 05 nguyên tắc chung sống hòa bình, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; thực hiện đầy đủ Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Nguyên tắc 06 điểm của ASEAN về vấn đề Biển Đông (2012), sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
- Kiên trì chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tôn trọng quyền tự do hàng hải và nỗ lực bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải cho tàu thuyền của các nước qua lại Biển Đông phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; thúc đẩy hợp tác về an toàn biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống tội phạm trên biển nhằm góp phần xây dựng lòng tin.
Trung Quốc đã không thể nào lấp liếm, che đậy được những hành vi bất chấp chân lý và đạo lý:
Thứ nhất, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 rõ ràng là đã vi phạm trắng trợn Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Điều 56 của Công ước Liên hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) quy định một quốc gia ven biển có quyền chủ quyền với các mục đích thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình. UNCLOS không có quy định nào giải thích cho hành động đặt giàn khoan dầu của Trung Quốc trong vùng EEZ của Việt Nam.
Trung Quốc đang đi ngược lại dòng chủ lưu trong quan hệ giữa họ với Việt Nam và động thái mới nhất của Bắc Kinh đã vượt qua ranh giới cho phép. Do đó, Việt Nam có phản ứng rất cứng rắn.
Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã điện đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và cả Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì phản đối hành động của Trung Quốc và khẳng định rằng Việt Nam sẽ "áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết và phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp" ở Biển Đông.
Các tàu Cảnh sát biển Việt Nam cũng đã được phái đến khu vực Trung Quốc đặt giàn khoan để yêu cầu rút khỏi vùng EEZ của Việt Nam trong khi các ngư dân của Việt Nam vẫn thực hiện các hoạt động khai thác bình thường ở khu vực trên.
Đáp lại các hành động bảo vệ chủ quyền chính đáng của Việt Nam, Trung Quốc lại gửi thêm tàu đến để bảo vệ giàn khoan này, các tàu Trung Quốc thậm chí cố tình đâm va vào các tàu chấp pháp của Việt Nam.
Thứ hai, hành động của Trung Quốc vi phạm các nguyên tắc của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và đào sâu sự nghi ngờ của các nước trong khu vực về ý định thực sự của Bắc Kinh.
Ngoài Việt Nam và Philippines, Singapore, Malaysia và thậm chí cả Indonesia đang ngày càng lo ngại về hành vi của Trung Quốc trong khu vực. Indonesia trước đây luôn giữ vị trí trung lập trong những tranh chấp ở Biển Đông, nay đã hoàn toàn thay đổi quan điểm và cho rằng tuyên bố của Trung Quốc thách thức chủ quyền của Jakarta đối với vùng biển Natuna.
Trong thực tế, tàu vũ trang của Trung Quốc đã đối mặt với tàu của Indonesia trong vùng biển mà Jakarta tuyên bố chủ quyền.
Nếu Trung Quốc đã có hành động đặt giàn khoan trong vùng EEZ của Việt Nam, như hành động trước đây nhằm kiểm soát bãi cạn Scarborough năm 2012, chắc chắn Bắc Kinh sẽ mở rộng hoạt động của mình xuống phía nam, đặt ra nguy cơ đụng độ với Malaysia và Indonesia.
Với vai trò của Indonesia trong ASEAN, thay đổi quan điểm của Jakarta đối với Trung Quốc là một bất lợi lớn đối với Bắc Kinh. Hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ khiến uy tín quốc tế của nước này bị hủy hoại. Những thành tựu từ chiến lược "tấn công quyến rũ" của Trung Quốc đối với ASEAN trong những năm 1990 có thể bị sụp đổ bởi một làn sóng chống Trung Quốc trong khu vực.
Ngày 11/5 vừa qua, tại Hội nghị Cấp cao các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 24, các Ngoại trưởng đã ra tuyên bố về tình hình hiện nay ở Biển Đông, bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra ở Biển Đông, khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1995, ASEAN ban hành một tuyên bố riêng về sự leo thang các mối đe dọa Biển Đông. Điều này thể hiện phản ứng dữ dội về mặt ngoại giao trong việc phản đối Trung Quốc ở Đông Nam Á. Đặc biệt, với những diễn biến nói trên, Trung Quốc đã bộc lộ rõ quyết tâm thực hiện một trong những mục tiêu chiến lược của họ là kiểm soát và khống chế tuyến hàng hải quốc tế qua Biển Đông, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, an toàn tự do hàng hải quốc tế khiến cho dư luận hết sức quan tâm và không thể không có những phản ứng mạnh mẽ…
Thứ ba, Trung Quốc mất lý do cho sự hiện đại hóa quân sự của nước này. Bắc Kinh tuyên bố rằng, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc là mang tính chất phòng thủ và sẽ không làm suy yếu an ninh khu vực. Trong thời gian căng thẳng gia tăng ở Biển Đông giai đoạn 2007-2013, Trung Quốc thường tránh sử dụng lực lượng hải quân. Thay vào đó, các lực lượng bán quân sự, chẳng hạn như tàu hải giám của Trung Quốc, thường được triển khai để phục vụ tham vọng lãnh thổ của nước này.
Trong vụ tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines tại bãi cạn Scarborough năm 2012, không có tàu hải quân nào của Trung Quốc được triển khai đến vị trí này. Trung Quốc đã huy động các tàu bán quân sự và các tàu cá để ngăn chặn phía Philippines tiếp cận khu vực.
Tuy nhiên, để bảo vệ giàn khoan dầu khổng lồ của Trung Quốc trong vùng EEZ của Việt Nam, Bắc Kinh đã điều động trên 07 tàu hải quân, 33 tàu cảnh sát biển và hàng chục tàu vận tải, 06 tàu dịch vụ dầu khí... Ngoài ra, Trung Quốc còn điều hàng chục tốp máy bay hoạt động trên khu vực. Do đó, các nước khác có lý do để lo lắng về ý định thực sự đằng sau chương trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc.
Cuối cùng, hành động trên của Trung Quốc có thể làm mất ổn định an ninh khu vực, tạo ra một trở ngại đối với các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tái cơ cấu nền kinh tế và duy trì tăng trưởng của nước này. Bắc Kinh đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong nước, trong đó có sự suy thoái của môi trường, lão hóa dân số và các phong trào ly khai ở Tây Tạng và Tân Cương. Trong vài năm qua, các cuộc tấn công khủng bố của các lực lượng ly khai đã xảy ra ở các thành phố lớn, đe dọa sự ổn định xã hội của Trung Quốc.
Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu chậm lại. Lãnh đạo Trung Quốc cần một môi trường quốc tế ổn định để tập trung nguồn lực vào những thách thức nội bộ. Nhưng hành động gây hấn của Bắc Kinh đối với Việt Nam có thể gây mất ổn định an ninh khu vực và làm suy yếu những nỗ lực để duy trì tăng trưởng.
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng EEZ của Việt Nam là một tính toán sai lầm chiến lược. Rõ ràng là, các nước trong khu vực sẽ tăng cường xây dựng khả năng phi đối xứng để bảo vệ chủ quyền của họ nhằm đối phó với Bắc Kinh, đồng thời họ cũng có thể hoan nghênh sự tham gia của các quốc gia khác vào khu vực, chẳng hạn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản trong việc quản lý tranh chấp Biển Đông.
Nói cách khác, hành vi hung hăng của Trung Quốc đã tạo điều kiện và đẩy mạnh chiến lược xoay trục của Mỹ tới khu vực châu Á, điều mà các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc không muốn thấy.
Hành động hung hăng và gây mất ổn định khu vực sẽ không giúp Trung Quốc thực hiện mục tiêu của tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Cách tốt nhất để Trung Quốc tăng vị thế của mình như là một cường quốc toàn cầu là trỗi dậy nhưng tôn trọng những nguyên tắc cốt lõi trong quan hệ đối ngoại - hợp tác cùng có lợi, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của nước khác và giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình.
Tiến sĩ Trần Công Trục
Nguồn tin: Báo Vnexpress
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
<img alt="dsc00041" height="720" src="/uploads/photos/dsc00041.jpg" width="1280"...